Phân loại Calostoma

Mô tả chi ban đầu của nó, dựa trên một loại loài Calostoma cinnabarinum (đồng nghĩa với cinnabarina),[2] được phát hiện bởi nhà thực vật học người Pháp Nicaise Auguste Desvaux vào năm 1809.[1] Trước khi có sự phân tích di truyền hiện đại, Calostoma được coi là một phần của Gasteromycetes, một nhóm nấm có cấu trúc bào tử kèm theo. Cụ thể, nó được xếp vào thứ tự của puffballs cuống,[3] mặc dù một số nhà nghiên cứu nấm đã gợi ý rằng Calostoma chi nên được sáp nhập với tulostoma [4] (xerophilic cuống puffballs), Xơ cứng bì [5] (puffballs cứng), geastrum [6] (sao đất), hoặc Pseudocolus [7] (stinkhorns). Một số tác giả lại đặt Calostoma trong nhòm loài riêng của mình, với tên khoa học Calostomataceae.[8][9][10]